Trông Vời Cố Quốc
Truyện
ngắn Vĩnh
Liêm
Mới năm giờ sáng, theo thói quen, cụ Khải
trở giấc. Nếu là ngày thường, cụ đi
tiểu rồi trở lại ngủ tiếp. Nhưng hôm
nay, biết không thể nào ngủ tiếp được
nữa nên cụ vội vàng chui ra khỏi lớp mền
dầy ấm áp. Cụ không dám cử động mạnh
v́ sợ làm thức giấc bà vợ đang ngủ say.
Lúc bước chân cụ Khải vừa chạm cánh
cửa pḥng ngủ, cụ chợt nghe tiếng bà vợ trách
yêu:
- Ông thức dậy sớm thế? Sao ông không đánh
thức tôi dậy luôn thể?
Cụ Khải bật đèn, sửa lại chiếc
áo ngủ “pijama”, đoạn âu yếm nói với
vợ:
- Tôi định để cho bà ngủ thẳng
giấc. Mọi việc đă chuẩn bị xong cả
rồi, đâu cần ǵ tới bà phải thức dậy
sớm!
- Th́ ông cũng nên gọi tôi dậy để đun
nước pha trà cúng Ông Bà chứ!
Cụ bà ngồi thẳng người trên giường,
hai bàn tay thoăn thoắt quấn lại mái tóc dài
rối bù, đoạn bước ra khỏi pḥng ngủ.
Cụ bà nhường cho chồng đánh răng xúc
miệng trước, c̣n bà th́ đi thẳng xuống nhà
bếp vặn bếp điện đun nước.
Rửa mặt xong, cụ Khải chọn bộ quần áo
khá nhất trong “gia tài” mà cụ mang theo được,
mặc vào tươm tất rồi đi thẳng ra pḥng
khách.
Năm nay, gia đ́nh cụ Khải bỗng dưng
được ăn cái Tết đầu tiên tại
hải ngoại. Nếu không nhờ chị Đức, con gái
đầu ḷng của cụ, gọi dây nói từ New
Orleans cho hay th́ chắc ǵ cụ Khải nhớ ngày âm
lịch mà chuẩn bị ăn Tết Việt Nam. Ngày mùng
Một Tết lại nhằm vào ngày tuyết rơi, dày lên
đến gần đầu gối, càng làm cho cụ
Khải nghi ngờ lời nhắc nhở của chị Đức.
Từ thuở nhỏ tới giờ, đây là lần
đầu tiên trong đời cụ Khải mới có
dịp nh́n tận mắt cảnh tuyết rơi. Ở
Việt Nam, cụ chẳng bao giờ biết tuyết là ǵ!
Ngày lễ thiêng liêng của dân tộc Việt Nam – ngày
Tết – thường th́
có nắng ấm, hoa cười, gió mát… Ở cái xứ
Hoa Kỳ này, ngày Tết Việt Nam tưởng chừng
như không có, v́ có người Mỹ nào biết đến
đâu! Mà nếu có người Mỹ nào biết tới
đi chăng nữa th́ chỉ có trong tâm tưởng
lờ mờ của họ mà thôi.
Cụ Khải đứng ngắm nghía chiếc bàn
thờ dă chiến đặt ở pḥng khách. V́ là
chiếc bàn ăn cơm nên nó chỉ cao đến ngang
bụng cụ Khải. Đêm qua cụ đă cao hứng dùng
ngay giấy gói quà Giáng Sinh do người Mỹ tặng
để viết thành câu đối dán lên tường,
phía sau bàn thờ. Câu đối này của cụ
Nguyễn Thượng Hiền viết lúc sinh thời, trước
khi cụ ra ngoại quốc hoạt động, mà cụ
Khải đă đọc được ở đâu đó
và tấm tắc khen măi:
“Tảo
dục vi mai, văn vi cúc
Động
đương như thủy, tĩnh như sơn.”
Trên bàn thờ, ngoài bộ lư hương dă
chiến ra, c̣n có hai chậu cúc vàng, một đĩa hoa
quả, một đĩa mứt, và bộ trà di tản
theo cụ Khải. Sau khi rót trà vào ba tách nhỏ, cụ
Khải đốt ba nén nhang, miệng lâm râm khấn
nguyện. Cụ nghĩ rằng cụ có lỗi rất
lớn đối với tổ tiên v́ cụ đă già
rồi mà c̣n tham sống sợ chết, bỏ tổ tiên
ở lại quê nhà, không có ai nhang đèn cúng bái. Bây
giờ cụ ở đây, cách xa quê cha đất tổ
nửa ṿng trái đất, dù cho cụ có đốt đến
ngàn nén hương thơm, khấn vái tới ră đầu
gối th́ cũng không mong được ông bà chứng
giám. Nhưng với ḷng thành đầy hối hận,
cụ Khải tự biết không thể đơn
giản nghi thức được, v́ làm như thế,
cụ Khải cảm thấy càng có lỗi lớn đối
với tổ tiên. Việc cụ rời bỏ quê hương
đă là một cái lỗi; rời bỏ mồ mả
tổ tiên không người chăm sóc lại là cái
lỗi thứ hai. Nay đơn giản nghi thức cúng
lễ là thêm cái lỗi thứ ba – bất kính đối
với tổ tiên. Làm sao cụ Khải chuộc lại
được lỗi lầm này trong khi tuổi của
cụ đă ngoài thất tuần! Biết bao giờ
mới được trở lại quê hương để
khấu đầu tạ lỗi với tổ tiên! Cụ
Khải tự vấn ḿnh. Hay là ta đành bỏ xác nơi
đây vĩnh viễn?
Cụ Khải nhớ lại hai mươi hai năm
trước, năm 1954, lúc đó cụ mới vừa qua
khỏi ngũ tuần. Với cái tuổi đó, cụ c̣n
hy vọng trở về đất Bắc trước khi
cụ theo ông theo bà. Nhưng ngày hy vọng đó đă không
đến với cụ nữa! Ở Miền Nam, dù sao cũng
là quê hương, chứ c̣n ở đây th́ hoàn toàn xa
lạ và tuyệt vọng. Cụ Khải chỉ c̣n hy
vọng nơi con cháu cụ. Chúng nó c̣n có ngày được
hồi hương, c̣n có cơ hội được
bỏ xác nơi quê cha đất tổ.
Xong tuần niệm hương, cụ Khải khai trà
đầu năm. Đó là thói quen của cụ. Mỗi
lần khai trà xong, cụ Khải ngâm nga một bài thơ
Đường mà cụ ưng ư nhất cho năm đó. Năm
nay, cụ Khải chọn bài thơ “Tư Qui” của Vương
Bột. Giọng ngâm của cụ khàn khàn, đứt quăng.
“Trường
giang bi dĩ trệ
Vạn
lư niệm tương qui
Huống
nhục cao phong văn
Sơn
sơn hoàng diệp phi.”
Cụ Khải đang
thả hồn theo ḍng thơ của Vương Bột th́
chợt nghe tiếng lanh lảnh của bà vợ ở sau lưng:
- Ối ông ơi! Đầu năm mà ông ngâm nga kể
lể như có người chết ở trong nhà vậy!
Dù cụt hứng, cụ Khải vẫn tươi cười
để lấy ḷng vợ:
- Bà làm tôi cụt hứng mất! Thơ của Vương
Bột chứ nào phải của ai đâu!
Cụ bà ngồi xuống chiếc ghế “sofa”
đối diện bàn thờ tổ tiên, tằng hắng
lấy giọng:
- Ngày xuân ông phải ngâm thơ của Vương
Duy th́ mới hợp. Đây này nhé!
“Nhật
nhật nhân không lăo
Niên
niên xuân cánh qui.”
Như chừng đắc ư, cụ bà ngâm tiếp bài
thơ của Tôn Địch:
“Biên
địa oanh hoa thiểu
Niên
lai vị giác tân
Mỹ
nhân thiên thượng lạc
Long
tái thủy ưng xuân.”
Cụ Khải không để
thua vợ, bèn ngâm bài thơ “Tư Gia” của Đỗ
Phủ:
“Giang
bích điểu thu bạch
Sơn
thanh hoa dục nhiên
Kim
xuân khán hựu quá
Hà
nhật thị qui niên.”
Giọng cụ Khải
trở nên trong trẻo và truyền cảm tuyệt vời.
Chắc là cụ quá cao hứng trước ngày Tết thiêng
liêng? Suốt thời gian nằm dài ở trại tị
nạn, cụ Khải không hề nhắc nhở tới thơ,
dù là thơ Đường, loại thơ mà cụ – khi c̣n
ở quê nhà – thường ngâm nga vào buổi tối trước
khi đi ngủ.
Cụ bà tự biết không thể nào ngâm thơ Đường
đấu lại với chồng được, bèn cười
huề:
- Ông chỉ có giỏi ngâm nga chứ nào có biết ǵ
khác hơn đâu! Ông hăy nh́n ra ngoài sân ḱa, tuyết
đă phủ kín mọi nhà, thật đúng là:
“Dĩ
nhạ khâm chẩm lănh
Phục
kiến song hộ minh
Dạ
thâm tri tuyết trọng
Thời
văn chiết trúc thanh”!
Cụ Khải liếc xéo bà vợ yêu qúi một cái
thật lâu, ngụ ư bảo “đàn bà cũng sính thơ
văn gớm”. Hiểu ư chồng, cụ bà lui xuống
nhà bếp chuẩn bị thức ăn sáng cho chồng
để ông nhâm nhi cốc rượu khai xuân. Với tài
nội trợ khéo léo của cụ bà, dù xa quê hương
nhưng vẫn có thịt heo đông lạnh, bánh chưng,
dưa món…
Hai vợ chồng già ngồi vào chiếc bàn con,
khấn vái tổ tiên một hồi lâu trước khi
cầm đũa. Cụ Khải rót rượu vang ra hai
cốc nhỏ, mời vợ:
- Đầu năm mới tôi chúc bà ăn ngon ngủ
khỏe.
Cụ bà nâng cốc rượu chúc lại chồng:
- Chúc ông sống cho đến ngày trở về
cố quốc.
Uống xong tuần rượu, cụ Khải nh́n ra
sân, nói với vợ:
- Đời tôi không mong ǵ hơn là được
gửi tấm thân già này nơi quê hương, nhưng
ngặt nỗi tuổi của tôi cũng gần đất
xa trời rồi, chắc là không được như
lời bà chúc. Chỉ v́ tương lai con cháu mà vợ
chồng ḿnh phải bỏ nước ra đi. Chứ
thật ra, với tuổi già này, bọn Việt cộng
không cần giết th́ sớm muộn ǵ ḿnh cũng
chết!
Cụ bà châu mày:
- Ông hơi lẩm cẩm rồi đấy! Chính ông
hối thúc tôi cùng bọn trẻ ra đi, chứ nào
phải ai khác đâu! Cái thân xác già này c̣n kể chi mà
ông than tiếc măi chứ? Chết ở đâu cũng
thế thôi, miễn sao cái chết không bị người
ta hành hạ là tốt rồi. Tôi chỉ sợ ông ở
lại bị chúng bịt miệng, đến khi chết cũng
không được yên thân!
Uống thêm cốc rượu, cụ Khải
tiếp lời vợ:
- Chính tôi cũng nghĩ như bà, song nhiều đêm
suy nghĩ lại, tôi thấy đau xót vô cùng! Tuổi già
ở đây chẳng c̣n thú vị ǵ cả! Như bà
biết, con cháu ở một nơi, c̣n ḿnh ở một
nẻo. May là bà c̣n sức khoẻ để chăm sóc
cho tôi; nếu không th́ hai vợ chồng ḿnh phải vào
viện dưỡng lăo rồi! Ở xứ này, Tự Do là
thế đấy! Tự do của tuổi già là ở
trong viện dưỡng lăo! Con cái nào có màng tới cha
mẹ của chúng đâu! Ḿnh c̣n đứa con gái duy
nhất, thế mà ngày Tết cũng không được
chúng về thăm! Nếu ở Việt Nam, giờ này con
cháu đă tề tựu đông đủ cả rồi. Tôi
không biết giờ này thằng Thảo c̣n sống hay
đă chết rồi! Con vợ của nó ở lại
liệu có được ăn Tết như ḿnh hay không?
Tôi thấy cuộc chiến vừa qua thật là vô nghĩa
quá, bà ạ! Giữa lúc gia đ́nh ḿnh đang êm ấm
th́ bị họ bắt phải chia ĺa. Chắc là ông
Trời không đoái hoài tới đất nước ḿnh
chăng?
Cụ Khải đang hứng khẩu th́ bị
tiếng chuông điện thoại reo làm gián đoạn câu
chuyện. Cụ hất hàm bảo vợ đi nghe điện
thoại, nhưng cụ bà lắc đầu từ
chối:
- Tôi nào có biết tiếng Mỹ ǵ đâu mà ông
bảo tôi nghe điện thoại!
Từ ngày trong nhà gắn điện thoại tới
giờ, chỉ có một ḿnh cụ Khải nghe điện
thoại mà thôi. Cụ Khải cũng chán nghe điện
thoại, nhưng cụ không thể đùn cho vợ
được nên đành miễn cưỡng cầm
ống nghe. Giọng chị Đức nói oang oang trong máy:
- Thưa bố, vợ chồng chúng con và các cháu
sẽ tới thăm bố mẹ trong vài giờ nữa. V́
đường ngập tuyết nên sự di chuyển
phải chậm lại. Mong bố mẹ an tâm.
Cụ Khải gác điện thoại, báo tin cho
vợ hay. Hai vợ chồng già xiết tay nhau, cảm
động đến chảy nước mắt. Làm sao không
cảm động cho được! Tuyết rơi
ngập đường như thế này mà chúng nó cũng
chịu khó lặn lội vượt ngàn dậm tới thăm,
thật là gia đ́nh ḿnh c̣n phúc đức! Cụ
Khải tự an ủi lấy ḿnh.
Cụ bà đi xuống nhà bếp làm thêm thức
ăn để đăi con gái, chàng rể cùng đàn cháu
ngoại yêu qúi. Ḷng bà rộn ràng vui như một ngày
hội lớn. Cái Tết đầu tiên nơi xứ
lạ quê người mà được sum họp như
thế này th́ c̣n ǵ qúi bằng. Hai bàn tay cụ bà thoăn
thoắt làm việc mà cụ không cảm thấy mỏi.
Uống xong cốc rượu, cụ Khải định
đi nghỉ một lát trước khi con cháu tới thăm.
Lên giường nằm, cụ cảm thấy đầu
óc váng vất và ngầy ngật chi lạ. Không lẽ ta
say v́ mấy cốc rượu vang? Cụ tự hỏi.
Hay v́ tuổi già không c̣n thích nghi với rượu
nữa? Cụ Khải cố gắng nhớ lại bài thơ
“Tống Xuân Từ” của Vương Duy rồi ngâm
một ḿnh để tự an ủi tuổi già:
“Nhật
nhật nhân không lăo
Niên
niên xuân cánh qui
Tương
hoan hữu tôn tửu
Bất
dụng tích hoa phi.”
Ngâm xong bài thơ, cụ Khải cảm thấy tâm
hồn thơ thới hơn bao giờ hết. Cụ
nằm duỗi thẳng hai chân, xếp hai bàn tay ngang
ngực rồi nhắm đôi mắt lại. Hơi
thở của cụ Khải bỗng nhiên chậm lại
dần dần và đứt quăng, nhưng miệng cụ
vẫn c̣n lẩm bẩm hai câu thơ:
Bốn phương mây trắng… một màu…
(Suối Bạc, 12-11-1981)
(Trích trong tập truyện Ngày Xuân Chưa Đủ Ấm, sắp xuất bản)
Contact: Vinh Liem 1 Applegrath Court, Germantown, MD 20876-5613 (U.S.A.) E-mail: vinhliem9@aol.com |
[Home]