Tháng Tư, 1975của Đỗ Tiến Đức

Người đọc: Vĩnh Liêm

 

 

       Đầu năm Đinh Hợi (2007) được đọc một truyện dài là điều thú vị; mà cái truyện dài ấy lại do một tác giả nổi tiếng viết và gửi tặng lại là một vinh hạnh lớn. Đó là tác phẩm ‘Tháng Tư, 1975’ của nhà văn, nhà báo, đạo diễn Đỗ Tiến Đức, Chủ nhiệm kiêm Chủ bút báo Thời Luận. Truyện dài ‘Tháng Tư, 1975’ viết dưới dạng hồi kư trích đoạn, xây dựng cốt truyện rất khéo, như thật, t́nh tiết éo le, gay cấn, lôi cuốn người đọc…

 

Tóm lược cốt truyện

       Tháng Tư năm 1975, Trung tá Phạm Trần Lê đưa vợ con rời khỏi Việt Nam với hy vọng được đi Mỹ, c̣n ông th́ quyết định ở lại với anh em chiến sĩ dưới quyền để tử thủ đơn vị. Nhưng lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh ngày 30 tháng Tư đă làm cho ông tuyệt vọng, anh em chiến sĩ phải tan hàng. Trung Tá Lê trở về nhà, rồi t́m đường vượt biển. Nhưng sự vượt biển bất thành, ông lại trở về nhà, và cuối cùng th́ đi tù (Cộng sản gọi là ‘học tập cải tạo’).

       Sau bảy năm ở tù khổ sai, Trung tá Phạm Trần Lê được thả, nhưng ngôi nhà của ông đă bị cán bộ CS chiếm đoạt rồi, nên ông phải đến tá túc nhà của một cô gái tên Yến (trước 1975 làm gái bán ba và có một đứa con lai) mà ông đă quen biết khi cô ta t́nh nguyện (có trả tiền) đi thăm nuôi ông trong trại cải tạo.

       Trong thời gian tá túc tại nhà của Yến để chờ ngày đi đoàn tụ với vợ con ở bên Mỹ th́ chẳng may bà vợ ông (cô giáo Ngọc) âm thầm về Sài-g̣n t́m ông và phát hiện rằng ông đang chung sống với một người đàn bà (tức Yến). V́ máu ghen nên khi Trung tá Lê được đoàn tụ với gia đ́nh, vừa đặt chân xuống phi trường ở New York th́ cũng là lúc bà Ngọc quyết liệt từ giă ông mà không một lời giải thích lư do tại sao. Măi sau này ông Lê mới phăng được đầu mối, th́ ra v́ có sự hiểu lầm rằng ông mê vợ bé (tức Yến) nên đă không cùng đi với vợ con vào tháng 4 năm 1975.

       Sau cùng, Trung tá Lê đươc biết bà Ngọc đang về Việt Nam thăm mẹ nên ông quyết định đi về Việt Nam và ṃ xuống Vĩnh Long (quê vợ) để thăm bà mẹ vợ; đồng thời cầu cứu bà mẹ vợ thuyết phục bà Ngọc nối lại t́nh xưa.

       Trước khi về Vĩnh Long, ông Trung tá Phạm Trần Lê đi ra Bắc, về quê ở tỉnh Phúc Yên, với mục đích thăm người mẹ già mà ông đă biệt ly từ năm 1954. Khi gặp lại người mẹ (bị mù ḷa), ông Lê cũng không dám nói thật v́ sợ bà cụ giữ ông ở lại luôn, mà ông đành phải nói dối với mẹ rằng ông là bạn của con bà. Ông Lê chỉ nán lại có vài giờ rồi lặng lẽ rút lui v́ ông sợ bà Hiền (vợ cả của ông) về tới, th́ chuyện đi về Vĩnh Long để gặp lại Ngọc sẽ hỏng bét hết.

       Tưởng cũng nên nhắc lại, trước khi vào Nam năm 1954, ông Lê đă có người vợ cả, tức bà Hiền, đang mang thai 3 tháng. Khi ở trong trại tù cải tạo, ông Lê mới được biết người cán bộ lấy khẩu cung ông, tên Phạm Trần Đặng, chính là con trai cả của ông.

 

Những ǵ đă xảy ra trong ‘Tháng Tư, 1975’

 

1. Bối cảnh tháng 4 năm 1975 - Xin trích ra đây hai dẫn chứng điển h́nh do ông Phạm Trần Lê viết trong hồi kư.

a) Những chiến sĩ anh hùng vô danh:

‘Tôi đặt tay lên vai Vĩnh như là một hành động cảm thông, chia xẻ:

- Thôi, Vĩnh, cởi bỏ đồ trận ra đi em…

Chiếc đầu Vĩnh từ từ chuyển động, khuôn mặt hiện ra, đôi mắt ngước lên. Trung tá Phạm Trần Lê giật ḿnh kinh ngạc thấy đôi mắt Vĩnh như là hai vết thương dàn dụa máu trộn với nước mắt. Tôi bật lên tiếng kêu:

- Vĩnh!

Vĩnh nghiến răng, đầu gật gù:

- Thưa thượng cấp. Đây là lần đầu trong đời quân ngũ, tôi không thi hành lệnh của thượng cấp. Tôi không thể cởi bỏ quân phục của tôi được, v́ đó là tổ quốc, là danh dự và là trách nhiệm… Tôi đă thề ở vũ đ́nh trường tại Trung Tâm Huấn Luyện Đồng Đế, dưới chân núi Ḥn Khô là tôi sẽ bảo vệ tổ quốc…

Tôi run rẩy ôm Vĩnh:

- Vĩnh! Tôi hiểu! Vĩnh ơi! Anh hiểu em mà…

Bỗng Vĩnh vụt đứng dậy. Vĩnh như một pho tượng bằng đồng đen ở một công viên hay nghĩa trang nào mà tôi đă gặp. Vĩnh như thể hiện h́nh hài của những nhân vật anh hùng mà tôi đă đọc trong sử sách như Trần B́nh Trọng, như Từ Hải… Tôi lặng người ngồi ngắm Vĩnh, tưởng như người lính này đă hiển thánh. Giọng Vĩnh dơng dạc như tôi đă từng nghe khi anh ban lệnh cho đại đội:

- Quân đội chúng ta có những thằng tướng hèn nhưng cũng có nhiều người lính không hèn.

Rồi nhanh như chớp, Vĩnh đưa ṇng súng lên dưới cầm. Hai hố mắt Vĩnh trào ra một ḍng máu đỏ. Một tràng tiếng nổ chát chúa. Tôi nghe được âm thanh rú lên man rợ của đầu viên đạn cọ sát vào ṇng súng. Tôi nghe được âm thanh của mảng da bị đầu viên đạn xé rách. Tôi nghe được âm thanh của xương của thịt trên đầu Vĩnh bị viên đạn phá nát. Tai tôi chợt nhức buốt v́ một tiếng hét khác. Tôi nh́n xem th́ thấy một đồng ngũ của tôi, anh ta đă cởi áo nên tôi không đọc được tên và cấp bực, anh ta đang giận dữ lột bỏ chiếc áo thun khỏi đầu, rồi anh ta cởi luôn chiếc quần xà lỏn. Anh ta hét lên: 'Đă cởi quân phục được th́ mọi thứ đều cởi được hết, để giữa trời đất, chỉ c̣n duy nhất và trọn vẹn cái thân thể của một con người thôi!' Tôi chưa kịp phản ứng ra sao th́ anh ta chạy băng ra khỏi cổng căn cứ, mất hút trong ḍng người tất tưởi đổ vào thành phố.’ (trang 26-27)

 

b) Bài học đầu tiên của chế độ mới:

‘Tôi đang lơ mơ với những kỷ niệm th́ mọi người nhốn nháo nh́n ra cánh cửa pḥng đang mở. Hai tên bộ đội cầm súng AK xuất hiện:

- Tất cả nghe đây. Chúng tôi bắt đầu buổi làm việc với các anh các chị đây. Nhớ là khi đi ra làm việc với chúng tôi th́ phải mang theo hết tang tư vật của ḿnh v́ sẽ đi nơi khác chứ không trở lại đây nữa đâu đấy nhé.

Rồi họ chỉ vào một người đàn ông đứng gần cửa nhất:

- Anh này, theo chúng tôi.

Người đàn ông nói:

- Vợ con tôi cùng đi với tôi chứ?

- Đă nói là tôi gọi ai th́ chỉ một người đó đi thôi. Không hỏi linh tinh.

Rồi hắn không cho vợ con của ông ta đi chung mà chỉ định người khác, tất cả năm người. Chúng tôi nh́n nhau ngơ ngác với bài học đầu tiên của chế độ mới.’ (trang 64)

 

2. Những nét chính trong trại tù cải tạo - Trong tù cải tạo th́ có biết bao nhiêu cảnh cười ra nước mắt. Nhưng thôi, chỉ cần hai cảnh sau đây cũng đủ để chúng ta thấm thía cái cảnh tù đày của Việt cộng.

a) Cảnh chôn sống tù:

‘Ba anh bộ đội cầm súng AK, có dây đạn quấn ngang lưng, dẫn mười thằng chúng tôi đi. Tới cửa bệnh xá, họ ra lệnh cho chúng tôi đứng, rồi nói:

- Trại giao cho các anh công tác đem chôn một anh cải tạo. Các anh phải làm khẩn trương trong ṿng nửa tiếng, để trở về trại trước giờ giới nghiêm. Các anh nghe rơ chưa?

Mọi người nhao nhao trả lời như máy:

- Báo cáo cán bộ, rơ.

Chúng tôi vội ào vào bệnh xá, xem người bạn xấu số của ḿnh là ai. Anh ấy nằm trên chiếc chơng tre. Trong cảnh tranh tối tranh sáng, mặt anh ấy xạm đen, hằn lên những đường khô ở g̣ má, ở hốc mắt, ở cằm, trông giống như một xác cổ Ai Cập thường thấy in trong sách vở. Ai đó trong nhóm chúng tôi thốt lên:

- Thằng Hoành! Nó ở chung lán chung đội với tôi.

Anh ta nhào tới ôm lấy Hoành, vừa thở hổn hển vừa gọi tên bạn:

- Hoành ơi! Hoành ơi! Mày chết…

Bỗng anh ta khựng lại, ngưng kể lể. Đôi mắt anh ta giương lên, nh́n chăm chăm vào mặt tử thi, rồi tai anh ta đặt lên mũi, rồi đặt lên ngực tử thi nghe ngóng. Anh ta la lên:

- Nó chưa chết! Tim nó c̣n đập này! Cán bộ! Cán bộ ơi!

Một anh cán bộ mặc áo choàng trắng của nhà thương, miệng bịt khẩu trang, nhẩn nha bước tới.

- Cán bộ ơi! Thằng bạn tôi c̣n sống!

Cán bộ gật đầu:

- Th́ anh ấy c̣n sống!

- Vậy tại sao đem anh ấy đi chôn?

- Bởi v́ chỉ vài giờ nữa th́ anh ấy sẽ chết.

- Ai nói vậy?

- Tôi.

- Bằng cớ nào mà anh quả quyết người này sẽ chết đêm nay?

Câu hỏi này vô t́nh đă đánh đúng điểm yếu là sự ngu dốt của anh cán bộ thích khoác áo choàng trắng khiến anh ta sửng cồ, mặt phừng phừng giận dữ:

- Này, anh kia, anh không được hỗn láo nhé. Anh không có quyền hỏi tôi về bằng cớ nhé. Tôi nói anh ấy chết là anh ấy chết. Không chết bây giờ th́ chốc nữa sẽ chết. Nếu đêm nay không chết th́ mai chũng chết thôi. Anh ấy nằm thoi thóp mà không có thuốc, v́ nhà nước ta c̣n đang khó khăn sau cuộc chiến tranh cam go tốn nhiều tiền của chống đế quốc Mỹ, th́ thử hỏi, làm sao anh ấy sống cơ chứ? Tôi ra lệnh chôn anh ấy là tôi tốt với anh ấy đấy, các anh không biết à?

Anh cán bộ dừng nói, chúng tôi dừng mọi hoạt động v́ mọi người vừa chợt thấy giữa đôi môi khô quắt thâm đen của Hoành bỗng động đậy như muốn nói một điều ǵ. Và, tôi lặng người xúc động, v́ ở đuôi mắt Hoành đang nhè nhẹ ứa ra một giọt lệ. Giọt lệ đó như không có trọng lượng, hay như đang ở trong trạng thái chân không nên thật chậm chạp rơi xuống thái dương. Tôi nh́n anh cán bộ bệnh xá để xem thái độ anh ta thế nào. Anh ta biết ư tôi nên giải thích:

- Tôi bảo đảm là anh ấy sẽ chết thôi. Không hôm nay th́ ngày mai. Để anh ấy nằm đây hoàn toàn không ích lợi ǵ mà c̣n có hại cho những người bệnh khác. Phải chôn thôi.

Người bạn của Hoành kêu lên:

- Thế là mày bị chôn sống rồi, Hoành!…

‘Khi chúng tôi cột dây th́ tim Hoành c̣n đập. Đến khi hạ anh ấy xuống huyệt, tôi thọc tay vào đầu chiếu để vuốt mắt cho Hoành th́ thấy mũi Hoành vẫn c̣n thở…’ (trang170-173)

 

b) Cách trị bệnh của Việt cộng:

‘Buổi tối, tôi kể cho người bạn nằm bên nghe vụ tôi đi khám bệnh. Anh ta cười phá lên, giọng vừa khinh bạc vừa ngao ngán:

- Thằng cán bộ đó thành thật đấy, ông ạ. Khi nào bệnh xá có thuốc kư ninh là bất cứ bệnh nhân nào gặp nó cũng 'chơi' kư ninh. Khi nào nó có thuốc aspirine th́ tất cả bệnh nhân lại 'chơi' aspirine. Khi nào không c̣n thuốc ǵ cả th́ nó cho bệnh nhân uống KPmycine tức là khắc-phục-mycine…’  (trang 174-175)

 

3. Chính sách của Cộng sản đối với người dân Miền Nam - Chính sách thâm độc của Cộng sản Bắc Việt đối với nhân dân Miền Nam là ‘bốc lột, cướp đoạt, bần cùng hóa’ để dễ bề cai trị.

a) Cảnh cướp đất, cướp của, cướp nhà: Ông Phạm Trần Lê là nạn nhân thứ 1 phần triệu của ‘chính sách cướp đất, cướp của, cướp nhà’ do Lê Duẩn-Lê Đức Thọ chủ trương (trang 193).

‘Điều không làm ông Lê ngạc nhiên là khi ông thấy căn nhà của ông đă có người khác ở. Ông chỉ bối rối là tối nay ngủ ở đâu, ngày mai ngày mốt ông sẽ rơi vào t́nh huống nào v́ khi phát giấy ra trại, tên quản giáo dặn ông là phải cư trú đúng địa chỉ đă khai và phải tŕnh diện ngay công an khu vực để chấp hành lệnh quản chế hai năm…’

‘Măi đến khi không thể đứng lâu hơn nữa, ông đành vào gơ cửa nhà ông. Một người đàn bà ăn mặc theo lối Bắc đứng quan sát ông bằng đôi mắt vừa sắc vừa ác:

- Anh hỏi ai?

- Thưa bà, tôi là sở hữu chủ của căn nhà này…

- Này, tôi không biết anh là ai nhé. Vợ chồng tôi được trên cấp cho ở th́ cái nhà này là của chúng tôi. Không có lôi thôi nhé. H́nh như anh mới đi cải tạo về chứ ǵ?

- Vâng. Tôi mới được ra trại.

- Thế th́ anh đừng có lư sự kẻo lại trở vào trại cải tạo bây giờ đấy. Tôi yêu cầu anh ra khỏi nhà tôi ngay.

Ông đành bước ra khỏi sân nhà, đi lang thang ngoài đường mà đầu óc rối tung, bụng đói, miệng khát, trong túi không một đồng xu. Khi tới cái nước máy công cộng, ông vực tay hớp vài hớp, tiện thể rửa luôn cái mặt cho hết không khí nhà tù.’

 

b) Cách hành xử của Công an: Theo lời kể của một sĩ quan tù cải tạo nói với ông Phạm Trần Lê và ông đă thuật lại trong cuốn hồi kư như sau:

‘Một ông mặc duy nhất chiếc quần xà lỏn, mắt nhắm mắt mở bước ra. Và tôi nh́n qua vai ông ta th́ thấy bà vợ cũ của tôi đứng sau lưng ông chồng mới.

- Các đồng chí có chuyện ǵ?

- Xin đồng chí cảm phiền, xác minh cho cơ quan công an chúng tôi, là anh này có phải thuộc địa chỉ nhà này không?

Anh chồng mới của vợ tôi lắc đầu ngay. Nhưng bà vợ cũ của tôi đă lách ra phía trước người chồng, nói:

- Tôi xác nhận ông này là chủ căn nhà này.

Công an quay sang tôi, giải quyết ngay:

- Thế th́ anh phải ở đây.

Tôi tức tối la lên với công an:

- Các anh không nh́n thấy người chồng mới của bà ấy à?

Công an trả lời:

- Tôi không cần biết. Tôi chỉ biết rằng giấy ra trại của anh ghi rơ anh về địa chỉ này. Nếu anh không ở địa chỉ này th́ tôi bắt nhốt anh lập tức.

Tôi nói như người mất trí:

- Yêu cầu các anh bắt tôi ngay bây giờ. Yêu cầu các anh đưa tôi vô lại trại cải tạo…’ (trang 199-200)

c) Cướp nhà, cướp trinh: Quỳnh Lan là con gái của Đại tá Thưởng, v́ chờ Nghĩa - bạn trai -  nên bị ở lại. Quỳnh Lan khóc lóc kể lể cho ông Phạm Trần Lê nghe hoàn cảnh bi thương của cô như sau:

‘Quỳnh Lan bật khóc lớn hơn:

- Cháu sợ quá chú ơi. Nhà ḿnh mà sao chúng nó vô chiếm, rồi đuổi ḿnh ra ngoài đường hở chú? Khi chúng nó kéo tay cháu ra cổng, cháu không chịu, lập tức một thằng nó rút súng lục, dí ngay vào ngực cháu, lên đạn lách cách. Thế là cháu ngất xỉu. Đến khi lơ mơ tỉnh dậy, cháu thấy… cháu thấy… cháu nằm trên giường, trên người không c̣n quần áo ǵ nữa…

Mặt tôi nóng phừng phừng, giọng uất nghẹn trong cổ họng:

- Chúng nó coi cháu là chiến lợi phẩm đấy! Đồ khốn nạn! Thế mà nó thắng được ḿnh mới tức chứ. Thôi, nín đi cháu, nó không cho cháu viên đạn vô đầu là may cho cháu rồi…’ (trang 38).

d) Vơ vét để phi tang: Sau đây là một hoạt cảnh ở Vũng Tàu do chính sách vơ vét vội vàng của Việt cộng:

‘Ra khỏi nơi bị trấn lột, tôi bắt gặp một số 'đồng hội đồng thuyền' của tôi đứng lớ ngớ trên hè phố không một bóng người v́ trời chưa sáng mà đèn đường th́ cái cháy cái tắt. Tôi đảo mắt kiếm Quỳnh Lan nhưng không thấy đâu. Đang tính hỏi đám đông th́ một người đứng gần tôi đă nhanh miệng:

- Bà vợ ông ngất xỉu ở trong kia rồi.

- Chúng nó làm ǵ mà ngất xỉu?

- Th́ mấy thằng bộ đội bắt mọi người cởi hết áo quần ra. Bà ấy không chịu. Thế là chúng nó xông tới, đứa th́ ôm ngang người, ḱm cứng hai tay để cho đứa kia tụt quần. Bà ấy hét lên rồi xỉu.

- Rồi làm sao?

- Không biết. Chúng nó khiêng bà ấy đi.

- Đi đâu?

- Ông vô mà hỏi tụi nó chứ hỏi ǵ tôi.

Một bà lên tiếng, tôi tưởng liên hệ tới vụ Quỳnh Lan nên chú ư nghe th́ ra bà ta nói chuyện mất tiền bạc.

- Cái đám yêu ma này mới vô có một hai ngày mà sao quỷ quái thế nhỉ? Ḿnh giấu tiền vào trong thắt lưng quần, gấu áo, thế mà nó lấy dao rạch ra, moi hết cả, tức thật.

Một ông góp chuyện:

- Tôi hiểu rồi, bọn này vơ vét của chúng ḿnh rồi thả chúng ḿnh để phi tang đây mà! Tụi lỏi này gớm thật!’ (trang 69-70)

 

4. Xă hội Việt Nam sau 1975 - Sau đây là vài nét tiêu biểu:

a) Sự thay đổi chóng mặt: Sau bảy năm ở tù cải tạo, ông Phạm Trần Lê được phóng thích về Sài G̣n. Theo nhật kư, ông Phạm Trần Lê cho biết:

‘Khi đặt chân lên đường phố Sài G̣n, điều ngạc nhiên đầu tiên đối với ông là thấy các bảng hiệu đầy mầu sắc lại xuất hiện rực rỡ. Nó hoàn toàn khác với quang cảnh ngày ông đi tŕnh diện cải tạo. Và trong bẩy năm qua, nhà tù đă bắt bọn ông học về chủ nghĩa xă hội, nghe cán bộ lên lớp rằng đảng đang cải tạo xă hội để không c̣n giai cấp bóc lột, mọi người sẽ làm việc theo khả năng và hưởng theo nhu cầu. Nhưng bây giờ th́ trước mặt ông, Sài g̣n như đang hồi sinh sau cơn sóng đỏ’ (trang 192).

 

b) Cảnh cũ im ĺm, hoang vắng: ‘Bế tắc trước hoàn cảnh của một con thú rừng mắc lưới, ông đứng ngẩn ngơ nh́n dẫy phố quen thuộc một thời đă từng vang rộn tiếng cười của các con ông khi đi học về cùng với những đứa trẻ hàng xóm… Giờ đây dăy phố trở nên xa lạ với ông. Ông cảm như mọi nơi đều toát ra một vẻ lạnh lẽo từ những bức tường bao nhiêu năm không quét lại màu vôi, từ những khuôn cửa sổ bạc màu loang lổ. Ông nh́n từng nhà với hy vọng t́m thấy một người quen cũ để hỏi thăm, nhưng mọi cánh cửa đều im ĺm khép kín…’ (trang 193)

 

c) Sự lương thiện đă bị CS phá nát:

‘Người lái xe ôm phát cười lớn:

- Anh sợ tôi là công an giăng bẫy tóm anh, phải không? Anh đă biết cảnh giác con người của xă hội mới là anh tiến bộ đấy. Ḷng tử tế, sự lương thiện của dân tộc ta đă bị sóng đỏ phá nát hết rồi… Tôi nói để anh tin tôi nhé, tôi là trung úy thuộc Sư đoàn 7. Ông tướng tư lệnh của tôi đă tự sát khi có lệnh đầu hàng đấy.’  (trang 196)

 

d) Gặp việc ǵ cũng làm: Một mẩu đối thoại ngắn sau đây giữa ông Phạm Trần Lê với cô Yến thiết tưởng cũng đủ cho chúng ta thấy cái ‘thiên đường xă hội chủ nghĩa’ do Hồ Chí Minh dựng nên và để lại (trang 235-236).

‘Yến cười khanh khách:

- Xă hội chủ nghĩa là không có nghề chính thức nhưng gặp việc ǵ cũng làm và làm ra tiền.

- Thí dụ?

- Em bỏ mối hàng lậu đưa từ Cam Bốt về. Em dẫn gái quê đi thi lấy chồng Đài Loan. Em trung gian giới thiệu mấy tên cán bộ già khú đế muốn ngủ với gái dưới dạng đẻ thuê. Và em cũng đưa mấy đứa nhi đồng gái bán trinh cho ngoại kiều… Ngoài ra, em c̣n chạy cho những sinh viên mới tốt nghiệp đại học vô làm đảng viên đảng cộng sản để có chỗ làm hái ra tiền…

Tôi kinh ngạc kêu lên:

- Em nói toàn chuyện mà anh nghe cứ tưởng như đùa…

- Không đùa đâu, anh. Bảo đảm trăm phần trăm sự thật. Anh ở với em một tuần là anh biết hết.

- Đẻ thuê là ǵ hả em?

- Đó là tṛ chơi trống bỏi của các quan lớn nhưng lại muốn giữ 'phẩm chất cách mạng'. Những anh già này thèm khát hưởng thụ v́ những ngày trai trẻ của các anh ấy 'cống hiến cho cách mạng'. Nay cách mạng thắng th́ các bà vợ quê của các anh ấy như bầy khỉ già. Thế là các anh ấy toa rập nhau, khai là có nhu cầu có con mà vợ th́ quá tuổi đẻ rồi. V́ thế đảng làm ngơ cho mấy anh này thuê gái tơ về chơi cho đến khi nào cô gái này mang bầu.

- Nếu không mang bầu th́ cứ chơi hoài?

Yến cười:

- Các ông cách mạng không giống các ông tư bản đâu mà chơi rồi là giữ làm của luôn. Họ thay gái như thay áo…

- Nhưng nếu cô gái mang bầu th́ sao?

- Th́ đẻ rồi đem con đi bán cho những tổ chức xuất khẩu con nít dưới dạng con nuôi, kiếm thêm một mớ tiền, rồi lại chờ mối 'đẻ thuê' khác.

Tôi ngồi đực mặt suy nghĩ th́ giọng Yến đă kéo tôi trở về thực tại:

- A này, anh có giấy ly dị không?

- Để làm ǵ?

- Để có tiền chứ để làm ǵ! Em sẽ đưa một con mẹ giầu sụ, nó là con của tên ủy viên trung ương đảng cơ đấy, làm hồ sơ hôn thú với anh để nó sang Mỹ làm đầu cầu. Bảo đảm là anh có chục ngàn đô xài chơi.

Nghe Yến hùng hổ nói một hơi dài, đầu tôi muốn quay cuồng nên phải chặn lại:

- Thôi em ơi, đủ rồi.’

 

đ) Những công dân tương lai của đất nước trong xă hội chủ nghĩa: Một hoạt cảnh sau đây chưa từng có trước 30/4/1975. Mời qúi vị lần giở trang 250-251.

‘Những suy nghĩ mông lung làm ông Phạm Trần Lê nhức đầu chóng mặt. Con tầu chạy vào ga Sài g̣n lúc nào ông không hay. Mà ông cũng chẳng muốn bước xuống khỏi toa tầu v́ ông chưa biết về đâu đêm nay. Ông vào một quán nước, tính ngồi cho tiêu th́ giờ nhưng trái lại, ông c̣n bị quấy rầy nhiều hơn. Đó là những đứa trẻ c̣m cơi, có đứa chừng sáu bẩy tuổi, tới mời mua vé số, mời mua trái cây, mua kẹo và có đứa con gái mới khoảng mười ba, gạ ông đi chơi gái.

Ông xót xa nh́n những công dân tương lai của đất nước, hỏi:

- Các cháu có đi học không?

Một đứa trả lời:

- Học làm ǵ hả chú?

- Học để mai mốt kiếm được nhiều tiền.

- Xời! Cháu gặp thiếu ǵ thầy giáo đi đạp xích lô hay chạy xe ôm kia ḱa, chú ơi.’

 

Những cảnh cụp lạc

       Cái chất ‘sex’ trong văn chương qua ng̣i bút điêu luyện của nhà văn Đỗ Tiến Đức không bao giờ thiếu trong các tác phẩm của ông, kể cả truyện ngắn lẫn truyện dài. V́ đó là những hương-vị-tố làm chất xúc tác khiến cho người đọc không nhàm chán, buồn ngủ. Một món ăn ngon cần phải có những gia vị tuyệt vời hợp khẩu. Một tác phẩm hay không thể thiếu vài cảnh cụp lạc trong đó. Sau đây là một vài ví dụ điển h́nh:

 

a) Chú cháu nằm chung giường:

‘Tôi nghe tiếng Quỳnh Lan trở ḿnh rồi thấy hơi thở của cô bé nhẹ phà vào gáy tôi và bàn tay của cô bé đặt lên vai tôi với những ngón tay bối rối co co bóp bóp vào da thịt tôi, như chân con chim mới ra khỏi tổ lần đầu, đứng trên cành cây mà nh́n đất trời bao la… Tôi mơ hồ cảm thấy bộ ngực của cô bé ấp vào lưng tôi, hơi nóng thấm qua hai làn áo của hai người làm máu trong tim tôi bốc lên nóng ran. Trong lúc đó hơi thở của cô bé vẫn làm những sợi tóc gáy của tôi dựng đứng lên. Tôi cố vận dụng hết mọi năng lực để nằm bất động cho Quỳnh Lan yên ngủ thế nhưng sáng hôm sau, thức giấc, tôi thấy tôi đang ôm cô bé như ôm Ngọc. Quỳnh Lan cười nhẹ: Cháu phải cố nằm im để chú ngủ đấy. Tôi hoảng hồn, nh́n Quỳnh Lan mà cảm thấy ngượng v́ tôi biết tính tôi những đêm ngủ bên Ngọc là bàn tay tôi thường hay lần ṃ sờ soạng tùm lum.’ (trang47-48)

 

b) Một phép thăm nuôi đặc biệt:

‘Đêm hôm đó, ông ngủ chung với Yến. Người đàn bà xa lạ đă rơi vào hoàn cảnh bất ngờ mà phải nằm chung giường với ông. Đêm khuya trong rừng, khí hậu lạnh lẽo, chỉ có một cái mền mỏng nên hai người đều rét run. Cuối cùng họ phải ôm nhau cho ấm thôi. Khi đó Yến tâm sự với ông rằng trước đây nàng là gái bán ba ở gần một căn cứ Mỹ. Qua những lần cho thuê xác thịt vội vă, Yến mang bầu dù nàng đă học cách pḥng ngừa của những cô bạn cùng nghề. Đứa bé ra đời là Mỹ đen’

      Theo những ḍng ông Phạm Trần Lê viết trong hồi kư th́ đêm hôm đó, ông và Yến ăn nằm với nhau. Ông nhấn mạnh rằng phải viết hai người ăn nằm với nhau mới chính xác v́ không phải ông làm t́nh với Yến, mà cả hai bên đều chủ động rất tự nhiên, cứ như vợ chồng, nghĩa là chẳng ai phải tán tỉnh ai hết. Khi thấy ông kéo quần ông xuống th́ Yến cũng tụt quần ra rồi nằm chờ những tác động tiếp theo của ông…’ (trang 188)

 

Kết thúc cốt truyện thật khéo

       Truyện dài ‘Tháng Tư, 1975’ viết dưới dạng hồi kư trích đoạn, có nghĩa là tác giả Đỗ Tiến Đức chỉ sắp xếp lại câu chuyện do cuốn hồi kư của ông Phạm Trần Lê. Mà người đưa cái bản thảo cuốn hồi kư này cho tác giả Đỗ Tiến Đức là Tony Phạm, con trai của ông Lê. Chính Tony Phạm cũng không biết ǵ về cha của ḿnh, tức ông Phạm Trần lê. Cách sắp xếp cốt truyện loại này rất mới, làm lôi cuốn người đọc.

       Câu thắc mắc của độc giả là: Có thật bà Ngọc đă có chồng khác hay chưa? Liệu ông Phạm Trần Lê có gặp lại bà Ngọc hay không? Nếu có gặp lại th́ hai người có ở lại với nhau hay không? … Tất cả những thắc mắc đó tôi tin sẽ được giải đáp ở các trang 251, 253, 254 và 255.

 

***

       Tóm lại, ‘Tháng Tư, 1975’ là một tác phẩm có chiều sâu, câu chuyện thật hấp dẫn, lời văn mượt mà, t́nh tiết éo le, tâm trạng rối bời như bao nhiêu người nằm trong cuộc đổi đời bi thảm năm 1975. Quí độc giả nên t́m đọc ‘Tháng Tư, 1975’ để t́m lại chính ḿnh bị Tháng Tư Đen quật ngă, để gặp những người thân bất hạnh, để chia xẻ nỗi đau của những đồng đội đă từng nằm gai nếm mật trong quân ngũ dạo nào, v.v…

 

Địa chỉ liên lạc: Nhà xuất bản Thời Luận, P.O. Box 65705, Los Angeles, CA 90065 (USA).

 

Vĩnh Liêm

 

(Đức Phố, mùa Anh Đào, 31-3-2007)