Trận Hải Chiến Hoàng Sa năm 1974

cùng những Chứng Liệu Lịch Sử

 

Vĩnh Liêm

 

“Quần đảo Hoàng Sa luôn luôn thuộc về Việt Nam

và đó là vấn đề không thể chối căi được…”

“Trận hải chiến Hoàng Sa năm 1974, không chỉ là nỗi đau riêng cho

nửa nước (VNCH), mà là nỗi đau chung của toàn nước (dân tộc) Việt Nam.”

Vào đầu tháng 12 năm 2007, tên Hoàng Sa và Trường Sa bỗng dưng lại được báo chí và mạng lưới tinh học ở hải ngoại đồng loạt chú ư và loan tải v́ được tin Trung Cộng thành lập thành phố hành chánh Tam Sa trực thuộc tỉnh Hải Nam để quản lư ba quần đảo nằm ở Nam Hải, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Ngay sau đó, tại Việt Nam, các sinh viên, thanh niên và văn nghệ sĩ đồng loạt tổ chức các cuộc biểu t́nh (ngày 9 và 16-12-07) trước Ṭa Đại Sứ TC ở Hà Nội và Lănh Sự Quán TC ở Sàg̣n để phản đối hành động chiếm đất của Trung Cộng. Trong khi đó, tập đoàn lănh đạo CSVN ở Hà Nội đều im thin thít một cách khó hiểu. Bài viết này nhằm ghi lại một số dữ kiện lịch sử có liên quan tới quần đảo Hoàng Sa; đồng thời phơi bày mưu đồ chiếm đất của Trung Cộng, cùng dă tâm bán nước của tập đoàn lănh đạo CSVN.

Mưu đồ và tham vọng của Trung Cộng

      Đế quốc Trung Hoa từ ngàn xưa cho tới nay (đế quốc Trung Cộng) vẫn chỉ là một: tham vọng bành trướng lănh thổ (xâm lược) hầu thống trị toàn thế giới. Trung Hoa đă liên tục theo đuổi giấc mộng xâm lược từ mấy ngàn năm th́ nay (19-1-1974) đă bị thế giới vạch trần bộ mặt tham tàn khi trắng trợn xâm lăng lănh thổ nước ta trên quần đảo Hoàng Sa. Đây không phải là lần đầu tiên đế quốc Trung Hoa xâm lăng lănh thổ Việt Nam, mà đế quốc này đă từng làm trong các triều đại Ngô, Lê, Lư, Trần, Hậu Lê, Nguyễn, và Tây Sơn.

      Qua trận hải chiến Hoàng Sa năm 1974, chúng ta thắc mắc tự hỏi: Trung Cộng xâm lăng Hoàng Sa nhằm mục đích ǵ? Có 4 giả thuyết: (1) bành trướng lănh thổ; (2) có mỏ dầu tại Hoàng Sa; (3) thực hiện giấc mộng “Nam tiến”; (4) kiểm soát đường chiến lược trên Nam Hải (thủy tŕnh quốc tế). Gom cả 4 giả thuyết này lại làm một th́ mới giải thích trọn vẹn tham vọng bành trướng và xâm lăng của Trung Cộng.

Trận hải chiến Hoàng Sa

1.  Diễn tiến trận thư hùng hải chiến lịch sử - Ngày 19-01-1974, báo chí, hệ thống truyền thanh và truyền h́nh VNCH đồng loạt tường thuật về trận hải chiến lịch sử tại quần đảo Hoàng Sa giữa Hải Quân VNCH và Hải Quân Trung Cộng. Trận thử lửa đầy gian nguy này nhằm chống lại đế quốc Trung Cộng xâm lăng phần lănh thổ thân yêu của Việt Nam, nhưng chỉ có các chiến sĩ Hải Quân VNCH hào hùng bất khuất lâm trận; trong khi đó, ngụy quyền Hà Nội và Hải Quân Bắc Việt đều lặng im thin thít một cách hèn nhát.

      Ngày 17-01-1974, 15 chiến sĩ Hải Quân VNCH thuộc Tuần Dương Hạm Lư Thường Kiệt (HQ.16) cùng các toán Người Nhái và Biệt Hải đă đổ bộ lên quần đảo Hoàng Sa v́ được tin một số quân Trung Cộng lén đóng trên đó. Các chiến sĩ Hải Quân VNCH cắm hết cờ trên đảo và chờ lệnh. Lúc đó, phản lực cơ của TC gầm thét trên trời cao, và tàu của TC xuất hiện ở ngoài biển khơi.

      Ngày 19-01-1974, trận thư hùng hải chiến bắt đầu. Khoảng 10 giờ sáng, các chiến hạm của TC bắt đầu vây các chiếm hạm của Hải Quân VNCH. Cùng lúc đó, tàu TC đổ hàng chục Đại Đội lên đảo và giao tranh với quân trú đóng pḥng thủ của ta. Đến khoảng 10 giờ 25 phút, tàu Hải Quân ta được lệnh nă hải pháo vào tàu của TC. Chỉ trong ṿng 5 phút đầu, Hộ tống hạm Nhựt Tảo (HQ.10) đă bắn trúng hầm máy của chiến hạm Trung Cộng mang số 396 nên tàu bừng bừng bốc cháy. Tiếp theo đó, hàng loạt đạn hải pháo khác của HQ.16, HQ.4 và HQ.5 đă bắn trúng tàu địch mang số 271, đài radar bị găy, mất tay lái, quay ṿng ṿng rồi lủi vào băi san hô để tự hủy. Các thủy thủ của tàu này phải nhảy xuống biển để đào thoát. Thêm một chiến hạm thứ hai mang số 274 bị trúng đạn phát hỏa dữ dội. Rồi chiến hạm thứ tư (số 389) của địch cũng bị chung số phận. 

      Bị thất bại nặng nề trong màn đầu hải chiến nên quân Trung Cộng lồng lộn lên, lập tức tăng cường thêm nhiều chiến hạm khác để gỡ gạc. Hai chiến hạm địch mang số 281 và 282 dồn hết hỏa lực vào HQ.10 để trả thù. Chẳng may, HQ.10 bị trúng đạn nơi pḥng máy chánh nên tàu bị nghiêng sang hữu hạm. Hạm phó (HQ Đại Úy Nguyễn Thành Trí) bị thương nặng, một số chiến sĩ đă hy sinh. Nhưng Hạm Trưởng (HQ Thiếu Tá Ngụy Văn Thà) và thủy thủ đoàn c̣n lại không hề nao núng. Vừa tự cứu thương, cứu hỏa, vừa dồn hỏa lực chống trả 2 chiến hạm địch (281, 282). Gần tới màn kết thúc, một trái phá của địch bắn trúng đài chỉ huy HQ.10. Hạm Trưởng Ngụy Văn Thà và HSI CK Đinh Hoàng Mai bị thương nặng, chiến hạm bị liệt máy và nghiêng tới mức nguy hiểm nên Hạm Trưởng Thà ra lệnh cho nhân viên đào thoát trên 4 chiếc bè cứu cấp. Hạm Phó Trí xin ở lại nhưng không được Hạm Trưởng Thà chấp thuận v́ Hạm Phó phải đi với nhân viên. Chỉ có HSI Mai được ở lại v́ HSI Mai tha thiết muốn được noi gương Hạm Trưởng chết theo chiến hạm Nhựt Tảo. V́ Hạm Phó Trí bị thương khá nặng nên ông đă kiệt sức trên bè, đành phải thủy táng. Hai mươi hai thủy thủ c̣n lại đă được thương thuyền Ḥa Lan Skopionella cứu vớt 4 ngày sau đó.

      Trận hải chiến kéo dài hơn một tiếng đồng hồ. Ngoài một chiến hạm địch đă ch́m sâu trong ḷng biển lạnh, c̣n ba chiếc khác đang ngùn ngụt bốc cháy phải ủi băi và bị phá hủy sau đó.

2.  Thành phần tham chiến

      Về phía VNCH, lực lượng tàu chiến Hải Quân tham chiến gồm có: Khu trục hạm Trần Khánh Dư (HQ.4), Tuần dương hạm Lư Thường Kiệt (HQ.16), Tuần dương hạm Trần B́nh Trọng (HQ.5), và Hộ tống hạm Nhựt Tảo (HQ.10). Hỏa lực của ta gồm có: đại bác 20 ly, 40 ly, 57 ly, 76 ly và 127 ly.

      Về phía TC, lực lượng tàu chiến gồm có: Ngoài bốn chiếc tàu ngụy trang tàu đánh cá có trang bị vũ khí và một tàu đổ quân, c̣n có các chiến hạm trang bị hỏa lực hùng hậu, có hỏa tiễn và đại bác từ 100 ly đến 130 ly. Sáu chiến hạm sơn màu cứt ngựa mang số 271, 274, 281, 282, 389, 396. (Ghi Chú: Sau này tác giả mới được biết 271, 274, 281 và 282 là Hộ tống hạm Kronstadt; 389 và 396 là Trục lôi hạm; c̣n 4 tàu ngụy trang tàu đánh cá là Phi tiễn đỉnh (Komar 133, 137, 139, 145).

Tổng kết tổn thất đôi bên

1.  Hải Quân Trung Cộng

     a) Tổn thất chiến cụ: Kronstadt 274 bị ch́m với toàn bộ sĩ quan tham mưu; Kronstadt 271 bị hư hại nặng phải ủi băi, sau đó bị phá hủy, hạm trưởng tử thương; Trục lôi hạm 389 và 396 bị hư hại nặng phải ủi băi và sau đó bị phá hủy; 4 ngư thuyền (tức Phi tiễn đỉnh Komar 133, 137, 139, 145) chỡ quân bị ch́m, không rơ thiệt hại về nhân mạng.

     b) Tổn thất nhân mạng: 24 sĩ quan tử thương (1 Đô Đốc + 7 Đại Tá + 7 Trung Tá + 2 Thiếu Tá + 7 cấp Úy) và hơn 100 HSQ và Đoàn viên tử thương. Đó là chưa kể số SQ, HSQ, ĐV bị thương nặng nhẹ.

2.  Hải Quân VNCH:

     a) Tổn thất chiến cụ: HQ.10 bị ch́m. HQ.4, HQ.5 và HQ.16 bị hư hại nhẹ.

     b) Tổn thất nhân mạng: 32 SQ, HSQ và Đoàn viên tử thương (trong đó có Th/Tá Thà và Đ/Úy Trí, Hạm Trưởng và Hạm Phó HQ.10) + 26 mất tích.

Hoàng Sa và Chủ quyền Việt Nam

1.  Vị trí và địa thế - Quần đảo Hoàng Sa (Paracels hay Paracel Islands) c̣n được gọï là Tây Sa. Hoàng Sa, là băi cát vàng, do Vua Gia Long đặt.

      Theo tài liệu của Hải Quân VNCH, Hoàng Sa là một dăy đảo nhỏ, gồm khoảng 130 đảo, nằm giữa kinh tuyến 111º - 113º Đ và vĩ tuyến 15º45 - 17۫º05 B, cách Đà Nẵng khoảng 170-200 hải lư (300-360 cây số về hướng ĐĐB), cách Sàig̣n và Hải Pḥng khoảng 400-500 hải lư (720-900 cây số). Diện tích chung quanh quần đảo Hoàng Sa độ 10-11 cây số vuông. Mùa mưa từ tháng 6 tới tháng 2 năm sau. Nhiệt độ trung b́nh là 27 độ C. Hoàng Sa là một vị trí chiến lược, kiểm soát mọi sự lưu thông trong vùng biển Nam Hải. Đài khí tượng của VNCH đặt tại đảo Hoàng Sa (Pattle). Việc trấn giữ đảo gồm 2 đại đội TQLC và lực lượng ĐPQ.

      Quần đảo Hoàng Sa gồm có 2 nhóm; khoảng cách giữa hai nhóm này khoảng 40 hải lư (75 cây số):

      a. Nhóm Nguyệt Thiềm (Group Croissant) - Nằm ở phía Tây của quần đảo Hoàng Sa và gồm những đảo chính: Đảo Hoàng Sa (Pattle), Đảo Cam Tuyền (Robert), Đảo Vĩnh Lạc (Money), Đảo Quang Ḥa (Duncan), Đảo Duy Mộng (Drumond), Đảo Tri Tôn (Triton), Đảo Bạch Gui (Passu Keath), và Cồn quan sát (Banc des observations).

      b. Nhóm Tuyên Đức (Group Amphitrite) - Gồm các đảo quan trọng: Đảo Tây (Banc Ouest), Đảo Trung (I. Milieu), Đảo Cù Mộc (I. à Larbre), Đảo Bắc (I. Nord), Đảo Nam (I. Sud), Đảo Ḥn Đá (I. Rocheuse), Đảo Phú Lâm (I. Boisée), và Đảo Linh Côn (I. Lincoln).

2.  Nguồn Lợi Hoàng Sa – Quần đảo Hoàng Sa có 2 nguồn lợi lớn là hải sản và khoáng sản.

      a. Hải sản - Đủ loại: cá hồng, cá nục, cá đuối, cá mập, ốc tai tượng, trạch biển, rong biển, hải âu…

      b. Khoáng sản - Khoáng sản của quần đảo Hoàng Sa là “phốt phát” (phosphate). Số lượng phốt phát do các đảo cung cấp: Hoàng sa: từ 562 đến 960 ngàn tấn, Vĩnh Lạc: từ 787 đến 1 triệu 200 ngàn tấn, Cam Tuyền: từ 675 ngàn tấn đến 1 triệu 400 ngàn tấn, Duy Mộng: từ 675 ngàn tấn trở lên (theo tài liệu của Tổng Nha Khoáng Chất và Công Kỹ Nghệ VNCH năm 1973).

3.  Hoàng Sa gắn liền với lịch sử Việt Nam 

      Theo “Phủ Biên Tạp Lục” của Lê Quư Đôn (viết vào khoảng 1775-1776) th́ tiền nhân ta đă mở mang kinh tế ở Hoàng Sa. Ông viết: “Năm 1638, Hiền Vương Nguyễn Phúc Tấn đă tuyển ngư phủ hải đảo Lư Sơn (tức cù lao Ré, Quảng Ngăi) để thành lập đội Hoàng Sa”.

      Từ thời Chiêm Thành chưa sát nhập nước ta, người Chiêm Thành đă nhiều lần đi lấy hải sản ở Hoàng Sa.

      Đời Vua Gia Long, ngài đă đặt chân lên quần đảo Hoàng Sa năm 1802. Trong thời gian này, Việt Nam đă thành lập công ty Hoàng Sa, gồm khoảng 70 thủy thủ, đi Hoàng Sa để t́m hải vật.

      Đến đời Vua Minh Mạng (1820-1848), ngài đặc biệt chú ư đến Hoàng Sa. Trong cuốn “Hoàng Việt Địa Dư” (ấn hành năm 1835) đă chứng minh chủ quyền Việt Nam ở Hoàng Sa như sau: “Ở phía Đông Bắc xă An Ninh, Huyện B́nh Sơn và ở ngoài biển khơi có một quần đảo gồm có 130 đảo nhỏ. Những ḥn đảo này cách nhau bằng một ngày thuyền hoặc vài giờ thuyền. Dưới ven đảo đều có giếng nước ngọt. Ở giữa những mỏm đá người ta thấy có một băi cát vàng bao la nên đảo này mang tên là Hoàng Sa. Nơi đây có sóng biển dữ dội.” Vua Minh Mạng đă sai đội hải thuyền chở gạch đá ra Hoàng Sa dựng chùa “Phật Cổ Tự” và dựng tấm bia “Vạn Lư Ba Đ́nh” (nghĩa là sóng êm nơi xa vạn lư) làm dấu tích. Theo “Quốc Triều Chính Biên Toát Yếu” th́ Vua Minh Mạng đă thân chinh đến quần đảo Hoàng Sa năm 1836 để quan sát việc đo đạc, xác định vị trí và lập họa đồ.

      Từ năm 1920, các tàu tuần tiểu của Nha Thương Chánh Đông Dương luôn luôn tới lui quần đảo Hoàng Sa để kiểm soát bọn buôn lậu vũ khí và á phiện.

      Năm 1925, Hải Học Viện Đông Dương đă cử một phái đoàn thám hiểm khoa học đến quần đảo Hoàng Sa để nghiên cứu khoáng sản tại đó.

      Ngày 3-3-1925, ông Thân Trọng Huề, Bộ Trưởng Bộ Chiến Tranh của triều đ́nh Huế, đă xác nhận chủ quyền Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa bằng một văn thư, có đoạn như sau: “Quần đảo Hoàng Sa luôn luôn thuộc về Việt Nam và đó là vấn đề không thể chối căi được…”

      Năm 1926, Ông Krempf, Giám đốc Hải Học Viện Đông Dương đă tới quần đảo Hoàng Sa để quan sát và năm sau (tức 1927) ông phúc tŕnh lên chính quyền bảo hộ về tài nguyên thiên nhiên tại quần đảo Hoàng Sa.

      Năm 1931, Pháp gửi binh sĩ đến trú đóng tại Hoàng Sa.

      Năm 1932, Pháp thiết lập một ngọn hải đăng tại đảo Hoàng Sa.

      Trong thời kỳ Pháp thuộc, Việt Nam đă có những cơ sở hành chánh tại quần đảo Hoàng Sa: Nghị Định số 156-SC do Toàn Quyền Pháp tại Đông Dương kư và ban hành ngày 15-6-1932 nhằm thiết lập đại lư tại đảo Hoàng Sa và đặt trực thuộc tỉnh Thừa Thiên. Sau đó, Hoàng Đế Bảo Đại đă ban hành Dụ số 10 ngày 30-3-1938.

      Theo Giám Mục Tabert trong quyển “Địa dư lịch sử cảnh trí và tôn giáo phong tục tập quán các dân tộc” (xuất bản năm 1938) th́ “… từ trên 34 năm rồi nhóm quần đảo Tây Sa mà người An-Nam thường gọi là đảo Cát Vàng hay Hoàng Sa thực là ḥn đảo nhỏ bí hiểm, gồm những mỏm đá xen lẫn với các băi cát mà những nhà hàng hải đều kinh hăi, đă do người Nam Kỳ chiếm cứ.” Một đoạn khác, tác giả viết: “… nhưng có điều chắc chắn là Hoàng Đế Gia Long đă đặt đảo đó dưới quyền của nhà Vua, và năm 1816, Hoàng Đế đă long trọng trương lá cờ Nam Kỳ ở trên đảo.”

      Ngày 5-5-1939, Toàn Quyền Pháp tại Đông Dương đă thiết lập 2 đơn vị hành chánh tại quần đảo Hoàng Sa là đơn vị Croissant (Délégation du Croissant et dépendances) tại nhóm Nguyệt Thiềm và đơn vị Amphitrite (Délégation de l'Amphitrite et dépendances) tại nhóm Tuyên Đức.

      Năm 1947, Pháp thiết lập đài vô tuyến tại đảo Hoàng Sa để bảo đảm an ninh thủy vận cho vùng Nam Hải.

      Tháng 9 năm 1951, tại hội nghị San Francisco (Hoa Kỳ), trưởng phái đoàn Việt Nam đă tuyên bố trước 51 phái đoàn các quốc gia tham dự hội nghị, đại ư như sau: “Để cắt đứt mọi mầm mống xích mích, chúng tôi xác nhận chủ quyền Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà bất cứ ở thời đại nào cũng vẫn thuộc lănh thổ quốc gia Việt Nam”.

      Kể từ năm 1956, Hải Quân VNCH đă thường xuyên tổ chức các cuộc thám sát và thăm viếng quần đảo Hoàng Sa. Các chiến hạm của Hải Quân VNCH đă thường xuyên chở các toán TQLC và ĐPQ ra trấn giữ quần đảo Hoàng Sa và liên tục tiếp tế thực phẩm, quân dụng, thuốc men cho các toán này.

      Ngày 13-7-1961, Tổng Thống VNCH đă ban hành Sắc Lệnh số 174-NV đặt quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam và thành lập xă Định Hải, thuộc quận Ḥa Vang, tại đảo này.

      Ngày 21-10-1969, Thủ Tướng Chính Phủ VNCH đă ban hành Nghị Định số 709-BNV-HC sát nhập xă Định Hải vào xă Ḥa Long, thuộc quận Ḥa Vang, tỉnh Quảng Nam.

Trung Cộng xâm phạm chủ quyền Việt Nam tại Hoàng Sa

      Năm 1956, Trung Cộng đă xâm chiếm hai hải đảo phía Bắc của quần đảo Hoàng Sa, đó là đảo Phú Lâm (Boisée) và đảo Linh Côn (Lincoln), mà không gặp một trở ngại nào. Trước tiên, chúng cho dân chài đến đánh cá vùng Hoàng Sa, rồi ghé lại các đảo này để nghỉ ngơi. Thấy không có phản ứng của Việt Nam, chúng đưa quân đội đến chiếm đóng và thiết lập các cơ sở và công sự pḥng thủ. Riêng tại đảo Phú Lâm, chúng đặt cơ sở thiên văn, đài truyền tin, và hệ thống điện lực. Mục đích chính của chúng là khai thác phốt phát.

      Ngày 4-9-1958, Trung Cộng ra bản tuyên bố về hải phận của Trung Cộng, trong đó bao gồm hai quần đảo Hoàng Sa (Paracel Islands), tiếng Tàu gọi là Xisha (Tây Sa) và Trường Sa (Spratly Islands), tiếng Tàu gọi là Nansha (Nam Sa).

      Năm 1959, Trung Cộng âm mưu chiếm nốt các đảo ở phía nam quần đảo Hoàng Sa, tức nhóm Nguyệt Thiềm, bằng cách áp dụng lại các kế hoạch năm 1956. Nhưng Hải Quân VNCH đă kịp thời ngăn chặn âm mưu này và đă bắt giữ một số ngư phủ của Trung Cộng xâm nhập bất hợp pháp hai đảo Quang Ḥa (Duncan) và Duy Mộng (Drumond).

      Ngày 11-1-1974, Bộ Ngoại Giao Trung Cộng lên tiếng mạo nhận chủ quyền trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của VNCH, ngang nhiên cho người và tàu bè xâm nhập vùng lănh hải chung quanh các đảo Cam Tuyền (Robert), Quang Ḥa (Duncan), và Duy Mộng (Drumond) thuộc quần đảo Hoàng Sa. Bọn người này đă dựng cḥi và kéo cờ của Trung Cộng. Tức nước th́ vỡ bờ, ngày 19-1-1974 VNCH đă ra lệnh hải chiến với tàu Trung Cộng, gọi là trận hải chiến Hoàng Sa.

Chứng liệu bán nước của CSBV 

      Ngày 15-6-1956, Ngoại Trưởng của CS Bắc Việt là Ung Văn Khiêm đă tuyên bố: “Hà Nội nh́n nhận chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa mà Trung Quốc gọi là Tây Sa và Nam Sa”.

      Ngày 14-9-1958, Phạm Văn Đồng, Thủ tướng Chính Phủ Nước Việt-nam Dân chủ Cộng Ḥa (tức Bắc Việt) đă kư văn thư gửi Chu Ân Lai, Tổng lư Quốc vụ viện (tức Thủ-tướng) của Nước Cộng ḥa Nhân dân Trung-hoa (tức Trung Cộng), tán thành bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của Trung Cộng quyết định về hải phận của Trung Quốc (trong đó bao gồm cả Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam); đồng thời cam kết tôn trọng hải phận 12 hải lư của Trung Cộng.

Kết luận 

      Mặc dù VC đă khép nép nhúng nhường đàn anh vĩ đại Trung Cộng từ thập niên 50, nhưng đàn anh vĩ đại Trung Cộng lúc nào cũng thèm khát và muốn chiếm hữu đàn em. Trận hải chiến Hoàng Sa năm 1974, không chỉ là nỗi đau riêng cho nửa nước (VNCH), mà là nỗi đau chung của toàn nước (dân tộc) Việt Nam. Ấy thế mà CSBV vẫn ngậm miệng làm thinh! Rồi đến năm 1988, chẳng đặng đừng, VC cũng đă phải nướng hơn 70 đứa con thân yêu của tổ quốc v́ sự ngang ngược, trắng trợn và ngạo mạn của đàn anh vĩ đại! Sự ngang ngược, trắng trợn, ngạo mạn và thách thức ấy vẫn kéo dài cho đến ngày hôm nay mà tập đoàn cai trị CSVN vẫn b́nh chân như vạy! Khi sinh viên, thanh niên, và trí thức biểu t́nh chống Trung Cộng chiếm đoạt hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa th́ CSVN ra lệnh đàn áp và giải tán đám biểu t́nh, thể theo lời yêu cầu (hay ra lệnh?) của đàn anh vĩ đại! Nếu không gọi chúng là bọn HÈN NHÁT - KHIẾP NHƯỢC - BÁN NƯỚC th́ phải dùng chữ nào cho thích hợp với thái độ ươn hèn đó?

      Người Việt ở trong nước bây giờ (không phân biệt tŕnh độ học vấn, địa vị, giàu nghèo, tuổi tác…) nên noi gương ông Thân Trọng Huề, Bộ Trưởng Bộ Chiến Tranh của triều đ́nh Huế, lập lại lời nói khẳng khái và chắc nịch của ông: “Quần đảo Hoàng Sa (và Trường Sa) luôn luôn thuộc về Việt Nam và đó là vấn đề không thể chối căi được…”  Và hăy dán câu này trước cửa Quốc Hội và Phủ Thủ Tướng VC cùng Ṭa Đại Sứ của TC ở Hà Nội để xem phản ứng của họ ra sao. Hăy can đảm lên! Các anh hùng hải chiến Hoàng Sa sẵn sàng phù hộ cho các bạn.

(Đức Phố, 27-12-2007)

  Vĩnh Liêm

  Ghi chú: Hạm Trưởng Khu trục hạm Trần Khánh Dư (HQ.4): HQ Trung Tá Vũ Hữu San; Hạm Trưởng Tuần dương hạm Lư Thường Kiệt (HQ.16): HQ Trung Tá Lê Văn Thư; Hạm Trưởng Tuần dương hạm Trần B́nh Trọng (HQ.5): HQ Trung Tá Phạm Trọng Quỳnh; Hạm Trưởng Hộ tống hạm Nhựt Tảo (HQ.10): HQ Thiếu Tá Ngụy Văn Thà (sau trận hải chiến ông được vinh thăng Cố Trung Tá; HQ Đại Úy Nguyễn Thành Trí (Hạm Phó) được vinh thăng Cố Thiếu Tá).